Vài nét về đạo Phật và thuyết Nhân quả
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19318
Đức
Phật khám phá lý nhân quả, vô thường, duyên sinh, cuối cùng đạt đến chỗ siêu nhiên,
tức phi thiện phi ác, là cảnh giới của người giải thoát. Đến với Đạo Phật, học
hiểu đạo lý để chuyển hóa bản thân, bớt những đắm nhiễm, đam mê vật chất.
Thuyết
nhân quả của nhà Phật, nói đủ là nhân-duyên và quả là một triết lý mang tính
khoa học, qui luật tự nhiên của vũ trụ, không mang tính chất hình thức của sự
thưởng phạt từ một đấng quyền năng nào. Hiểu vậy, trong cuộc sống, chúng ta vui
vẻ đón nhận những khổ đau bất thường xảy đến với mình như một kết quả do chính
mình tạo nhân từ trước. Từ đó suy nghiệm ra, lý nhân quả chi phối cả vũ trụ
nhân sinh. Nếu tin sâu nhân quả, chúng ta sẽ được thăng hoa trên đời sống tâm
linh, trở nên hiền thiện đạo đức. Ngược lại, nếu không tin nhân quả, cuộc sống
chúng ta trở nên liều lĩnh và càn bừa, bất chấp hậu quả.
Nói
về lĩnh vực khoa học, từ nhân đến quả là sự chuyển biến tự nhiên. Đức Phật khám
phá lý nhân quả cũng chính là khám phá lý khoa học tự nhiên để áp dụng tu hành,
đạt đến lý tưởng siêu nhiên. Cho nên, Đạo Phật vừa mang tính khoa học tự nhiên,
vừa là khoa học siêu nhiên như nhà bác học Einstein đã nói: “Đạo Phật là khoa học
vừa mang tính tự nhiên vừa siêu nhiên”.
Vũ
trụ nhân sinh luôn chuyển biến vận hành trong mọi thời khắc. Có thể nói, bản
thân chúng ta, hoạt động tâm lý và tất cả các pháp đang chuyển biến liên tục,
không dừng trụ dầu chỉ một sát na. Quá khứ, hiện tại và vị lai luôn chuyển biến
theo chiều hướng nhân quả. Nhân quả cũng tức là vô thường, là chiều thời gian
chuyển biến liên tục trong tự thân của vật thể và trong hoạt động tâm lý. Vũ trụ
nhân sinh chuyển biến vận hành theo một quy luật chung, đó là luật nhân quả. Nó vận hành một cách âm thầm,
chỉ những người nào đầy đủ quán trí sẽ thấy rằng quy luật chi phối cả đời sống
vật chất, vật lý, sinh lý và tâm lý.
Đức
Phật khám phá lý nhân quả, vô thường, duyên sinh, cuối cùng đạt đến chỗ siêu
nhiên, tức phi thiện phi ác, là cảnh giới của người giải thoát. Đến với Đạo Phật,
học hiểu đạo lý để chuyển hóa bản thân, bớt những đắm nhiễm, đam mê vật chất.
Khoa học ngày càng tân tiến, khám phá những quy luật của tự nhiên để tạo ra sản
phẩm cung ứng cho lòng tham vô bờ của con người. Còn Đạo Phật cũng khám phá về
nhân quả, vô thường, duyên sinh nhưng giúp con người hiểu đạo lý, sống biết
cách đối nhân xử thế, làm đẹp bản thân, gia đình và xã hội. Cho nên, đến với Đạo
Phật là đến với đời sống tâm linh. Khi chúng ta có chánh kiến về nhân quả, chắc
chắn đời sống chúng ta sẽ được thăng hoa. Nghĩ, nói và làm có lợi cho mình, cho
người, không nghĩ điều quấy, nói lời xấu và làm việc ác.
Có
thể nói, phương pháp giáo dục phổ thông của Đạo Phật được tìm thấy ở đạo lý
nhân quả. Khi chúng ta làm một việc sái quấy, có hại cho người khác, có khi trốn
được tòa án ở thế gian nhưng không trốn chạy được chính lương tâm của mình.
Mình chính là gương nghiệp in bóng trước đài, là quan tòa xử án công minh cho
những hành vi tội lỗi nơi bản thân. Giáo dục về nhân quả giúp mình sửa đổi cái
hư dở nơi lương tâm chúng ta chứ không phải giúp mình trốn chạy trước pháp luật
bên ngoài. Nhân quả nhà Phật chú trọng đến động cơ luận hơn là kết quả luận,
phòng cháy chứ không chờ chữa cháy. Giáo dục của Đạo Phật là giáo dục từ ban đầu
khi khởi tâm niệm bất thiện, trước khi xảy ra điều tệ hại, khuyên mọi người ăn
hiền ở lành, hiểu biết nhân quả, tội phước, thì tự nhiên trở thành người tốt.
Vì vậy, người nào hiểu được nhân quả thì đời sống người đó được bình yên. Một
người ác có thể trở thành người hiền, một người xấu xa hèn hạ có thể trở thành
một người tốt. Từ đó từng bước cải hóa trở thành bậc Hiền, bậc Thánh.
Đối
với nhà Thiền, khi niệm thiện niệm ác đều quét sạch, trực giác phát sinh, con
người sống trong trạng thái phi thiện phi ác, nhưng việc thiện ác trên thế gian
vẫn quán xuyến, không lầm. Đó là người đang ở trong trạng thái thiền định, có đời
sống không niệm khởi.
Đức
Phật dạy, trên cuộc đời này có bốn hạng người:
Hạng
người thứ nhất, từ tối vào nơi tối.
Hạng
người thứ hai, từ tối đi ra sáng.
Hạng
người thứ ba, từ nơi sáng đi vào tối.
Hạng
người thứ tư, từ nơi sáng đi đến sáng.
Thế
nào gọi là từ tối đến tối? Nghĩa là người đó sanh trong một gia đình nghèo khổ,
kém văn hóa, không có đạo đức, lại không học hiểu đạo lý, với ý nghĩ ác, miệng
nói ác, thân làm ác, nên gọi là từ tối mà đến tối.
Hạng
người thứ hai, từ tối đến sáng, nghĩa là người này sanh trong một gia đình
nghèo khổ, không có văn hóa, không có đạo đức, nhưng tự thân người đó nỗ lực tu
hành, ý nghĩ điều lành, miệng nói điều lành, thân làm việc lành, ngày càng
thăng hoa trên đời sống đạo đức, nên gọi là người từ tối mà đến sáng.
Hạng
người thứ ba, từ nơi sáng đi vào tối, nghĩa là họ sanh trong một gia đình khá
giả, có văn hóa, có đạo đức, nhưng bản thân lại nghĩ điều ác, miệng nói ác,
thân làm ác, không biết đến đạo lý, nên gọi là từ sáng đi đến tối.
Hạng
người thứ tư, từ sáng đi đến sáng, nghĩa là người này được sanh ra trong một
gia đình khá giả, có đạo đức, văn hóa, lại biết tu học, ý nghĩ điều lành, miệng
nói lành, thân làm lành. Đây là hạng người hữu phước, gọi là từ sáng đến sáng.
Tất
cả chúng ta sống trong cuộc đời này đều do nghiệp quả biểu hiện từ những kiếp
trước. Mọi hậu quả chúng ta đang mang đều chính do bản thân chúng ta tạo tác.
Các pháp chuyển biến từ trạng thái này sang trạng thái khác, tâm lý chuyển biến
từ trạng thái này đến trạng thái khác, thì nghiệp cũng chuyển biến từ trạng
thái này đến trạng thái khác, không có cái gì đứng yên một chỗ. Vì vậy, nghiệp
có thể chuyển, từ người ác có thể thành người hiền, từ người hiền nếu không tu
cũng có thể trở thành người ác.
Nhân
quả thể hiện qua ba phạm trù thời gian, gọi là hiện báo, sanh báo và hậu
báo. Hiện báo là kết quả trổ ngay trong
hiện kiếp, có thể ngay tức khắc, hoặc một ngày, một tháng, một năm, nhiều
năm…trong một đời này. Sanh báo là kết quả trổ ở kiếp sau khi vừa thọ nhận một
thân mới. Vì vậy, có những người tạo việc lành bây giờ mà vẫn gặp điều không tốt
vì nhơn ác đã tạo từ kiếp trước. Hậu báo là khi mình tạo việc lành hay việc dữ ở
kiếp này, quả không trổ liền ở kiếp này hay kiếp tiếp theo mà nhiều kiếp về sau
mới trổ, vì duyên chưa đủ. Y cứ về lý nhân quả mà nói ba thời, ba khía cạnh của
nhân quả.
Nhà
Phật có nói: “Phàm làm việc gì phải nghĩ đến kết quả của nó”. Con người chúng
ta làm việc đôi khi do bản năng, tính háo thắng hoặc thiếu suy nghĩ mà không lường
trước những hậu quả của nó. Phần lớn những sự thất bại trong công việc đều do
những yếu tố chủ quan trên mà ra. Vì vậy, áp dụng đạo lý nhân quả vào các công
việc xã hội, chúng ta sẽ có được những thành công trong lao động. Người hiểu luật
nhân quả sẽ không cho phép mình suy nghĩ, nói năng và làm việc xấu. Nếu mọi người
ai cũng được vậy thì đất nước sẽ văn minh, xã hội có văn hoá, gia đình sẽ hạnh
phúc. Vì thế, giáo dục con người biết suy nghĩ tốt, làm việc lành là một nhiệm
vụ cao cả và thiết yếu.
Những
ai có niềm tin xác tín về nhân quả, thiện ác, dĩ nhiên khi suy nghĩ, nói năng
hay hành động gì đều phải có thái độ thận trọng. Một tách nước trà lỡ đổ xuống
đất, muốn lấy lên lại không dễ. Một ý nghĩ, lời nói, hành động xấu ác buông ra
lỡ lầm, mang lại một hậu quả ghê gớm khôn lường. Một bài kệ nói về nhân quả như
sau:
“Dục
tri tiền thế nhân
Kim
sanh thọ giả thị
Dục
tri lai thế quả
Kim
sanh tác giả thị.”
Tạm
dịch:
“Muốn
biết nhân đời trước
Xem
thọ nhận đời này
Muốn
biết quả đời sau
Xem
tạo tác đời này.”
Cái
thọ dụng trong cuộc sống này, chánh báo và y báo của mình, xem thử mình mang
thân như thế nào, con người có hạnh phúc hay không, nghèo hay giàu, ngu hay
trí… cứ nghiệm lại mà biết rằng nhân đời trước mình tạo là nhân gì. Nho giáo có
câu:“Nhất ẩm nhất trác, giai do tiền định”. Một cái ăn, một cái uống, một cái mặc
cũng đều do tạo nhơn lành hay dữ ở kiếp trước. Muốn biết kết quả kiếp sau ra
sao, nơi kiếp này hãy suy xét sự tạo tác của thân - khẩu - ý của mình ra sao. Nếu
chúng ta có chánh kiến về nhân quả sẽ có thể biết được quá khứ, hiện tại, vị
lai của mình và người như thế nào, từ đó quyết chí tiến tu để mỗi ngày được
thăng hoa hơn trên lộ trình tu tập.
Qua
thuyết nhân quả của Đạo Phật cho chúng ta thấy có sự tái sanh, luân hồi, có quả
báo khổ vui trong các kiếp sống. Các vị Đạt Lai Lạt Ma bên Tây Tạng đã nói đến
thuyết tái sinh, đi tìm hậu thân và các cõi sống. Thân ngũ uẩn của chúng ta đều
do nghiệp lực mỗi người vẽ ra mà có sự sai biệt về hình dáng, tính cách, hoàn cảnh.
Cho nên, mình là Thượng đế của chính mình, tự tạo ra hoàn cảnh chánh báo và y
báo cho chính mình. Người hiểu đạo lý, niềm tin này làm cho họ tự ý thức dè dặt,
thận trọng trong mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của mình, chuyên tu ba nghiệp
cho được thanh tịnh, ngõ hầu chuyển hóa bản thân, gia đình và xã hội đều dứt ác
hành thiện.
Là
người Phật tử chân chính, phải có sự tin tưởng tuyệt đối về lý nhân quả vì là một
lẽ thật. Chúng ta có thể kiểm nghiệm ở nơi hiện tượng hữu sanh hữu diệt theo
chiều nhân quả, từ đó áp dụng tu tập cho bản thân mình và mọi người, chuyển đổi
những hư dở, xấu ác nơi mình, góp phần vào đời sống gia đình và xã hội được
bình an, phúc lạc. Tin nhân quả, chúng ta tự ý thức dè dặt từng bước đi trong
cuộc sống này, chính bản thân mình sống có ý nghĩa. Và, chúng ta đem cái ý
nghĩa đó làm những việc hữu ích cho mọi người. Giáo dục con người biết tin nhân
quả thì bản thân họ được an vui, gia đình họ được hạnh phúc và xã hội được ổn định
trật tự, làm nền tảng xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.
Title: | Vài nét về đạo Phật và thuyết Nhân quả |
Authors: | Mộng, Đắc |
Keywords: | Đạo phật Thuyết nhân quả |
Issue Date: | 2009 |
Publisher: | Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo |
Description: | tr. 71-74 |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19318 |
Appears in Collections: | Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC) |
Nhận xét
Đăng nhận xét