Quỳnh Lâm - trung tâm Phật giáo Đại Việt thế kỷ XI-XVIII
Trong
suốt chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm của mình, chùa Quỳnh
Lâm luôn giữ vai trò là một trung tâm Phật giáo lớn, là một thắng cảnh nổi tiếng
của vùng đất xứ Đông.
Song
có lẽ cũng chính về sự “nức tiếng” đó mà chùa Quỳnh Lâm phải chịu một số phận
thật khác biệt, số phận thăng trầm của Trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm gắn liền với
những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc cũng như lịch sử Phật giáo nói riêng.
1.1.
Chùa Quỳnh Lâm dưới thời Lý
Theo
truyền thuyết chùa Quỳnh Lâm được xây dựng dưới thời Tiền Lý (thế kỷ thứ 6 sau
Công nguyên), nhưng các bằng chứng đáng tin cậy cho thấy chùa được xây dựng vào
đầu thế kỷ XII do Thiền sư Nguyễn Minh Không – Một trong những vị quốc sư dưới
thời Lý. Với sự hiện diện của Thiền sư Nguyễn Minh Không chùa nhanh chóng trở
lên nổi tiếng, tại đây ông đã cho đúc một pho tượng Phật Di Lặc rất lớn, nó được
xếp là một trong “An Nam tứ đại khí – 4 vật lớn nhất của An Nam”.
Nguyễn
Minh Không là một Thiền sư, Pháp sư dưới thời Lý, ông được nhà Lý phong là Quốc
sư nên còn được gọi là Lý Triều Quốc Sư và gọi tắt la Lý Quốc Sư. Lý Quốc sư
Nguyễn Minh Không tên thật là Nguyễn Chí Thành (阮志誠)
sinh tại xã Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là làng Điền Xá, xã Gia Thắng, Gia Viễn,
Ninh Bình). Tương truyền, sau khi lên ngôi không được bao lâu, tháng 3 năm 1136
Vua Lý Thần Tông bệnh nặng, lông lá mọc khắp cơ thể, gầm thét như hổ suốt ngày,
các danh y tài giỏi được triệu đến chữa bệnh nhưng bệnh không thuyên giảm. Tức
thì trong dân gian, trẻ con ca rằng:
"Muốn
trị bệnh Thiên tử
Phải
có Nguyễn Minh Không"
Vua
bèn sai sứ tìm khắp dân gian mới gặp được sư. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn,
dài hơn 5 tấc, đóng vào cột, lên tiếng nói: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra
thì trước đáng được tôn trọng". Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm. Sư lại lấy
hai ngón tay trái cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khiếp phục.
Khi gặp vua, Sư lớn tiếng nói: "Ðấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há
lại làm ra những điều cuồng loạn đấy ư?" Vua rất run sợ, Sư sai lấy một vạc
lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy lên khoảng bốn lần, rồi tắm
vua trong đó. Bệnh liền bớt ngay. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, Vua Lý
Thần Tông phong ông là Quốc sư, tha thuế dịch cho vài trăm hộ.
Thiền
sư Nguyễn Minh Không còn được các làng nghề đúc đồng tôn thờ là ông tổ đúc đồng
với tên gọi là Khổng Minh Không, ông được cho là có quyền năng hô gọi đồng từ
các nơi quy tụ về, vì thế ông cũng được cho là người đúc các vận dụng lớn của
thời Lý như chuông Quy Điền (chùa Diên Hựu), Phật Di lặc tại chùa Quỳnh Lâm, 2
vật khí này là 2 trong 4 vật khí được tôn xưng là “An Nam tứ khí”
Bia
Trùng tu tái tạo Tiên Du sơn đệ nhất Quỳnh Lâm tự cho biết Thiền sư Nguyễn Minh
Không xây chùa và đúc tượng trong đó tượng Phật Di Lặc “cao 6 trượng 60 thước,...dựng
Thượng điện 5 tầng cao 70 thước, rộng 50 thước.
Ngoài
những mô tả ngắn ngủi trên dấu ấn chùa Quỳnh Lâm thời Lý còn có thể cảm nhận
qua tấm bia lớn và thành bậc hiện còn trong khuôn viên chùa. Bia cao 2,46m, rộng
1,53m dầy 0,25m đây là một trong những tấm bia lớn nhất của thời Lý hiện còn.
Trán bia trang trí đôi rồng vờn cầu lửa, diềm được trang trí các hình rồng nối
đuôi nhau thành một bằng dài, phần hông cũng được trang trí hình rồng cuộn tròn
trong những ô vuông với đường nét tinh sảo. Đến thời Lê Trung hưng, khi trùng
tu chùa, người ta đã khắc lại nội dung văn bia, một mặt của tấm bia, trán và diềm
bia được khắc lại với đôi rồng chầu mặt nguyệt ở trán và rồng nối đuối nhau ở
diềm bia. Do vậy trên bia hiện nay có họa tiết hình rồng đặc trưng của hai thời
kỳ khác nhau là rồng thời Lý và rồng thời Lê Trung hưng.
1.2.
Chùa Quỳnh Lâm dưới thời Trần
Nhà
Trần vốn quê ở Đông Triều sau đó chuyển xuống vùng Nam Định, Thái Bình thuộc hạ
lưu sông Hồng cư trú, khai hoang, lập ấp rồi phát tích từ đó. Năm 1237 sau “biến
loạn sông cái” , vua Trần Thái Tông đem đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên
Hưng và Yên Bang cho Trần Liệu là ấp thang mộc
và phong làm An Sinh vương. Tại đây An Sinh vương cho xây dựng phủ đệ, tổ
miếu thờ tổ tiên và cha mình. Năm 1299 vua Trần Nhân Tông xuất gia tu hành theo
12 hạnh đầu đà tại Yên Tử và hóa Phật ở Am Ngọa Vân trên núi Bảo Đài cách không
xa Quỳnh Lâm, trong quá trình tu hành đó hẳn Quỳnh Lâm là nơi Phật hoàng thường
xuyên lui tới. Tuy nhiên Quỳnh Lâm chỉ được sử sách nhắc đến với tư cách là một
trung tâm đào tạo tăng tài lớn của Thiền phái Trúc Lâm dưới thời của Pháp Loa,
tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Năm 1308 Pháp Loa được Phật hoàng truyền Y,
Bát tại Cam Lộ Đường chùa Siêu Loại, nối
dòng Thiền Trúc Lâm và trở thành tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Sau khi trở
thành người đứng đầu của dòng phái ông đã cho mở mang và xây dựng chùa Quỳnh
Lâm thành một tự viện, một trung tâm đào tạo tăng tài của Thiền phái Trúc Lâm,
đồng thời là một trung tâm Phật giáo lớn đương thời, nơi tổ chức các sự kiện Phật
giáo lớn của Đại Việt đầu thế kỷ XIV.
Năm
1317, Pháp Loa bắt đầu cho mở mang và xây dựng chùa Quỳnh Lâm thành một trong
những trung tâm đào tạo lớn của Thiền phái Trúc Lâm, Quỳnh Lâm trở thành một tự
viện lớn. Trong công cuộc xây dựng và mở rộng tự viện Quỳnh Lâm, Tư đồ Văn Huệ
vương (Trần Quang Triều) làm thí chủ, ông cúng 4.000 quan tiền, nhiều đất đai
và gia nô vào chùa làm của Tam bảo. Nhiều quan lại, quý tộc nhà Trần cũng phát
tâm công đức tiền bạc, đất đai và gia nô. Theo ghi chép của sách Tam tổ thực lục,
đến năm 1324 các vương hầu, quý tộc nhà Trần đã cúng tổng cộng hơn 1.000 mẫu ruộng
cùng hơn nghìn gia nô làm của tam bảo chùa Quỳnh Lâm. Tự viện Quỳnh Lâm có đất
tam bảo ở khắp mọi nơi bởi vậy có câu “Sân chùa muống, ruộng chùa Quỳnh”.
Trong
suốt thời gian từ 1317 đến 1330 tức là từ khi Pháp Loa khai mở Quỳnh Lâm viện
cho đến khi Ngài mất, bên cạnh là một trung tâm đào tạo tăng sinh lớn của Thiền
phái Trúc Lâm, là chốn “tùng lâm” khang
trang, nhộn nhịp thì chùa Quỳnh Lâm còn là nơi các vương hầu, quý tộc nhà Trần
thường xuyên lui tới, liền giáp với chùa Trần Quang Triều cho mở Bích Động thi
xã.
Trần
Quang Triều (1287-1325) là con trai trưởng Trần Quốc Tảng, cháu nội Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn và có cụ tổ bốn đời là An Sinh Vương Trần Liễu, chủ nhân của
vùng đất An Sinh. Trần Quang Triều có biệt hiệu là Cúc Đường. Ông được phong chức
Tư đồ Văn Huệ Vương từ khi 14 tuổi, làm quan tới chức Nhập nội Kiểm hiệu tư đồ,
đóng góp đáng kể vào sự hưng thịnh của triều Trần. Bích Động Thi xã do ông sáng
lập và là chủ soái là nơi hội tụ những nhà tri thức lớn đương thời như Nguyễn Ức,
Nguyễn Sưởng, Nguyễn Trung Ngạn,.. Bích Đông thi xã là hội thơ sớm nhất của nền
thi ca phong kiến Việt Nam, do vậy nhiều người xếp Bích Động thi xã là tiền
thân của Hội nhà văn Việt Nam.
Quỳnh
Lâm là nơi tổ chức các sự kiện Phật giáo lớn: Năm 1319, Pháp Loa kêu gọi tăng
nhân, phật tử trích máu để in 5.000 cuốn kinh Đại Tạng và lưu giữ tại Quỳnh
Lâm, Thượng hoàng Trần Anh Tông tự chích máu mình viết Đại Tạng kinh cỡ nhỏ gồm
20 hộp cũng được lưu giữ tại đây. Sáu năm sau, năm 1325 Pháp Loa tổ chức lễ hội
nghìn tượng Phật, lễ hội diễn ra trong 7 ngày 7 đêm, đồng thời cho xây dựng 2
tòa tháp để rước xá lị của vua Trần Nhân Tông về lưu giữ tại Quỳnh Lâm; Năm
1327 Pháp Loa cho đúc pho tượng Di Lặc cao 1 trượng 6 thước (5,28m); Tháng 3 năm Mậu Thìn, niên hiệu Khai
Thái thứ 5 (1328), Bảo từ Hoàng thái hậu, Bảo Huệ Quốc mẫu và sư Pháp Loa đã tập
hợp chư tăng mười phương về Quỳnh Lâm, thiết lễ Đại trai đàn chuyển Tạng mười
ngày đêm, cúng tiến Thượng hoàng Trần Anh Tông
và Quốc Khảo Hưng nhượng đại vương, vua Trần Minh tông tham dự, nhân đó
Pháp Loa đã nhờ cấm quân rước đại tượng Di Lặc (được đúc năm 1327) lên nền điện
rồi đưa lên bảo tòa thếp vàng. Tháng 11 năm Khai Hựu thứ nhất 1329 làm lễ điểm
nhãn tượng Phật Di lặc, như vậy sau gần 3 năm việc đúc tượng Di Lặc mới hoàn
thành và chắc hẳn tòa nhà nơi đặt tượng cũng to cao không kém gì tòa Thượng Điện
5 tầng thời Lý. Quỳnh Lâm cũng là nơi đệ nhị tổ Pháp Loa giảng hội kinh thứ năm
và hội thứ chín kinh Hoa Nghiêm, mỗi buổi giảng thu hút hàng nghìn người tới
nghe.
Ngày
nay các công trình chùa tháp, điện thờ được xây dựng dưới thời Trần không còn nữa
nhưng khắp khuôn viên chùa chỗ nào cũng tìm thấy dấu vết vật chất của thời kỳ
vàng son của tự viện Quỳnh Lâm. Tại đây còn lại nhiều gạch ngói, đồ gốm sứ, những
vật dụng hàng ngày, những hình lá đề cân trang trí hình rồng gắn trên ngói mũi
sen lợp mái chùa, lá đề lệch trang trí hình rồng và tượng rồng trang trí trên
nóc chùa còn lại cho chúng ta hình dung phần nào về quy mô to lớn và sự lỗng lẫy
của kiến trúc chùa Quỳnh Lâm, dưới thời Trần. Kiến trúc chùa Quỳnh Lâm thời Trần
là kiến trúc Phật giáo hoàng gia. Các đồ thờ cúng, vật dụng hàng ngày như chân
đèn, bát hương, bát, đĩa, vv.. cho ta những góc nhìn về đời sống nơi tự viện Quỳnh
Lâm gần 700 năm về trước.
Cùng
với sự phát triển của Phật giáo thời Trần, tự viện Quỳnh Lâm ngày càng phát triển,
nó không chỉ thể hiện ở sự mở rộng về quy mô của bản thân Tự - Viện Quỳnh Lâm
mà còn thể hiện ở việc hàng loạt các chùa vệ tinh được xây dựng như Bác Mã, Hồ
Thiên, Thanh Mai,..vv, tạo thành một hệ thống các chùa vệ tinh quanh Quỳnh Lâm.
Cùng với các chùa Hoa Yên, Long Động (chùa Lân) và Ngọa Vân, Quỳnh Lâm và hệ thống
các chùa vệ tinh của nó đã biến khu vực An Sinh thành trung tâm Phật giáo Việt
Nam dưới thời Trần. Với hệ thống lăng tẩm, đền miếu nhà Trần được xây dựng ở An
Sinh và hệ thống chùa tháp của Thiền phái Trúc Lâm đã biến An Sinh thành một
trung tâm văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng và tâm của nhà Trần.
1.3.
Quỳnh Lâm từ thời Lê (thế kỷ 15 – 18)
Đầu
thế kỷ XV, khi giặc Minh xâm lược Đại Việt, với chính sách đồng hóa của Minh
Thành Tổ, quân Minh đã phá hủy nhiều công trình kiến trúc, văn hóa của Đại Việt,
tương truyền tứ đại khí của An Nam cũng bị quân Minh phá để lấy đồng đúc súng
đánh lại quân dân Đại Việt và chùa Quỳnh Lâm hẳn ít nhiều cũng bị ảnh hưởng.
Sau khi chiến thắng quân Minh, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi, lập lên nhà Lê, lấy
Nho giáo là nền tảng tư tưởng, Phật giáo vì thế suy yếu, chùa chiền không được
trú trọng, trong bối cảnh đó Tự Viện Quỳnh Lâm cũng ít được trùng tu, xây dựng.
Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ 16, nền quân chủ chuyên chế Nho giáo thời Lê Sơ bước
vào giai đoạn khủng hoảng, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra. Năm 1516, Trần
Cao đã dấy binh khởi nghĩa và lấy chùa Quỳnh Lâm làm trụ sở, cuộc khởi nghĩa thất
bại, tự viện Quỳnh Lâm được xây dựng dưới thời Trần có lẽ đến đây đã bị phá hủy
hoàn toàn.
Thế
kỷ XVI-XVIII, nằm trong phong trào phục hưng của Phật giáo, chùa Quỳnh Lâm cũng
được phục hồi và tiếp tục phát triển, giữ vai trò là một trong những trung tâm
của Phật giáo Việt Nam. Trong giai đoạn này, chùa gắn liền với sự nghiệp phục
hưng Thiền phái Trúc Lâm của Chân Nguyên thiền sư và các đệ tử của ông vào nửa
cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII. Trong giai đoạn này nhiều đợt trùng tu, xây
dựng mới được tiến hành, cùng với đó là việc biên soạn kinh sách Phật giáo cũng
được thực hiện tại đây.
Sau
thời gian có phần lắng xuống ở thời Lê sơ, thế kỷ XVI, đặc biệt là bước sang thế
kỷ XVII, XVIII khi Nho giáo ngày càng đi vào giáo điều, chế độ phong kiến Việt
Nam bước vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, nội chiến triền miên, nông dân
ngheo khổ, phiêu tán, niêm tin bị khủng hoảng,... thì Phật giáo và các tín ngưỡng
dân gian được phục hưng, trong đó đặc biệt là Phật giáo. Với sự hỗ trợ của tầng
lớp quý tộc, Phật giáo đã nhanh chóng được phục hưng với việc chùa chiền được
khôi phục và phát triển, các tông phái cũ được khôi phục, nhiều tông phái mới
được du nhập. Thiền phái Trúc Lâm do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập với tư
tưởng Phật giáo mang bản sắc văn hóa Đại Việt với tinh thần nhập thế, khai
phóng và vị tha. Mục tiêu của Phật giáo Trúc Lâm là hướng con người vào cõi thiện,
xa lánh điều ác, khai mở trí tuệ con người vào cõi chân, thiện, mỹ; con người
làm chủ sinh mệnh bằng chính tâm lực và trí tuệ của mình ngay trong đời sống hiện
tại nay được phục hưng mạnh mẽ. Đầu thế kỷ 17, trước sự khủng hoảng của Nho
giáo, tầng lớp quý tộc nhà Lê – Trịnh một mặt vẫn lấy Nho giáo là hệ tư tưởng
chính trị nhưng mặt khác cũng tìm đến Phật giáo như một bến đậu về tinh thần.
Các vua Lê, chúa Trịnh, và tầng lớp quy tộc Lê – Trịnh đều phát tâm xây chùa,
đúc chuông. Bia Trùng tu, tái tạo Tiên Du sơn, đệ nhất Quỳnh Lâm tự dựng năm
1629 cho biết, năm Vĩnh Tộ thứ 9 (1627), Thanh Đô vương Trịnh Tráng cho trùng
tu lại chùa, sau gần hai năm xây dựng, công việc trùng tu, tôn tạo đã hoàn
thành các công trình gồm Điện Phật, nhà Thiêu Hương, Tiền Đường, Giải Vũ, nhà Hậu
Phật, Hành Lang tả hữu, Nhà Tăng, Nhà Kho, Tam Quan và Gác Chuông, tổng cộng
103 gian.
Dấu
vết Tam Quan, Phật Điện và Thiêu Hương này đã được các nhà khảo cổ học phát hiện
trong các cuộc khai quật năm 2007-2009, các phát hiện khảo cổ học còn cho thấy,
trong đợt trùng tu này, ngoài các công trình kiến trúc được mô tả trong văn bia
thì cảnh quan, sân vườn cũng được chú trọng, trong đó từ tam quan có một con đường
dẫn thẳng đến Tiền Đường, đường rộng 2,20m, mặt đường được lát bằng gạch hoa
chanh, hai bên kè bằng gạch vồ, cấu trúc sân đường này giống như cấu trúc trục
thần đạo từ cửa Nam của cấm thành dẫn vào điện Kính Thiên nơi nhà vua thiết triều
ở Thăng Long.
Trong
suốt thế kỷ 17, chùa Quỳnh Lâm luôn được triều đình trung ương quan tâm trùng
tu xây dựng. Người đi đầu trong việc phục hưng Trúc Lâm là Thiền sư Chân
Nguyên. Với vai trò là một Tự-Viện lớn, trung tâm đào tạo tăng tài quan trọng bậc
nhất của Thiền phái Trúc Lâm, nơi lưu giữ nhiều kinh sách kinh điển của Phật
giáo, Quỳnh Lâm là nơi Thiền sư Chân Nguyên lựa chọn là điểm khởi đầu, “đại bản
doanh” của phong trào phục hưng Thiền tông Trúc Lâm.
Thiền
sư Chân Nguyên tên thật là Nguyễn Nghiêm, tự là Đình Lân ông sinh năm 1647 tại
làng Tiền Liệt huyện Thanh Hà, nay là Làng Tiền Liệt xã Tiền Tiến huyện Thanh
Hà tỉnh Hải Dương. Năm 19 tuổi khi đọc song sách Tam tổ thực lục thì cảm khái
mà than rằng “Bậc khôi nguyên trong thiên hạ
còn coi công danh như giầy rách, áo mũ cao sang tựa chiếc lồng
tre. Huống ta một gã thư sinh, sao bằng được như thế” Sau đó ông xuất gia tu
thiền tại chùa Hoa Yên (núi Yên Tử), sau thời gian theo học các vị cao tăng
đương thời như Tuệ Nguyệt, Chuyết Chuyết, Minh Lương, ..., được ban pháp danh
là Tuệ Đăng, sau được truyền Y Bát làm trụ trì hai tổ đình Long Động – Hoa Yên
và Quỳnh Lâm. Năm 1692, ở tuổi 46, Sư được vua Lê Hy Tông gọi vào kinh để trao
đổi về Thiền tông, biết Sư là người giỏi khác thường vua sắc phong Sư là Tuệ
Đăng hòa thượng. Năm 1722, khi Sư 76 tuổi, vua Lê Dụ Tông phong là Tăng thống
Chính Giác Hoà thượng. Ngày 28 tháng 10 năm Bính Ngọ (1726).
Tại
Quỳnh Lâm, năm 1684 Chân Nguyên cho dựng tòa cửu phẩm liên hoa bằng đá. Các cuộc
khai quật thăm dò khảo cổ học đã tìm thấy một số cấu kiện đá vốn sử dụng ghép bệ
tháp, nhất là phần bệ đài sen cho thấy quy mô của tòa cửu phẩm liên hoa này rất
lớn. Ngoài ra ông còn cho trùng tu chùa chiền, tô tượng, đúc chuông ở nhiều
nơi, sưu tầm, biên khảo và soạn thảo kinh sách cho khắc in và lưu giữ tại chùa
Quỳnh Lâm, lúc này Quỳnh Lâm trở lại với vai trò là Tự - Viên, một chốn tùng
lâm của Phật giáp Việt Nam thế kỷ XVII.
Sau
khi Chân Nguyên mất, đệ tử của ông đã cho xây dựng 2 tháp để chứa ngọc cốt của
ông, tháp thứ nhất dựng ở Long Động (chùa Lân) và tháp thứ hai dựng tại chùa Quỳnh
Lâm, cả hai tháp đều được gọi là Tuệ Đăng tháp . Tại Quỳnh Lâm, tháp Tuệ Đăng
là tháp lớn nhất hiện còn tại khu vườn tháp, tháp được xếp bằng các khối đá
xanh cao 5 tầng, tầng 1 là khám thờ, đỉnh khám có khắc hình bát quái lớn, mặt
trước của tháp có đề 3 chữ Hán lớn “Tuệ Đăng tháp”. Trên thân tháp còn lại bài
minh viết về cuộc đời tu hành của Chân Nguyên thiền sư.
Tiếp
nối sự nghiệp phục hưng Thiền phái Trúc Lâm, để tử của Ngài Chân Nguyên là Thiền
sư Như Hiện, tại Quỳnh Lâm, ông đã tiếp
tục xây dựng Phật điện, đúc tượng,... Năm 1730, được sự hỗ trợ của triều đình
mà trực tiếp là của chúa Trịnh Giang, toàn bộ chùa Quỳnh Lâm đã được xây dựng lại.
Trong đợt xây dựng này, để cung ứng nguồn nhân lực cho việc xây dựng chùa, triều
đình đã huy động tráng đinh của các huyện Đông Triều, Chí Linh và Thuỷ Đường
trong nhiều năm; vật liệu cho việc xây dựng, chúa Trịnh cũng cho rỡ hành cung Cổ
Bi (Gia Lâm) để lấy gỗ, cho đào sông làm đường để chở vật liệu,...
Các
sách Khâm Định Việt sử thông giám cương mục; Lịch Triều hiến chương loại chí
cho biết: “Tháng 10, mùa đông. Trịnh Giang sửa chữa xây dựng hai ngôi chùa Quỳnh
Lâm và Sùng Nghiêm. Sửa chữa xây dựng hai ngôi chùa này, công việc phiền phức nặng
nề, phải dỡ lấy gỗ ở phủ Cổ Bi thả xuống sông chở xuôi để cung cấp vào việc xây
dựng. Lại hạ lệnh cho dân ba huyện Đông Triều, Thủy Đường và Chí Linh phải gánh
vác công việc này, sẽ miễn cho một năm số tiền góp về đê đường và bưu đình. Về
sau, lại bắt dân khơi đường sông để việc vận tải được lưu thông, dân phải kéo gỗ,
xe đá, thường có hàng vạn người làm, ngày đêm không được nghỉ ngơi.”
Mặc
dù đã huy động sức người, sức của trong một thời gian dài nhưng công việc xây dựng
chùa Quỳnh Lâm mới chỉ hoàn thành một phần. Năm 2009, các nhà khảo cổ học đã
khai quật và phát hiện nền móng kiến trúc chùa do chúa Trịnh Giang cho xây dựng
từ năm 1730 – 1740. Chùa được xây dựng trên một mặt bằng
rộng 5.814m2 (rộng Đông – Tây 57m; dài Bắc
- Nam 102), gồm Tiền Đường, Hậu Đường, Trung Đường, Hành Lang hai bên và xen giữa
là các khoảng sân lớn, nhỏ.
1.3.1.
Dấu vết kiến trúc tam quan:
Ở
vị trí phía Nam, cách gác chuông chùa hiện nay khoảng 30m, năm 2007 khi khai quật
thăm dò di tích chùa Quỳnh Lâm các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích đường
lát gạch và nền móng của tòa Tam Quan. Tam quan có kết cấu 3 gian, 4 hàng cột,
mỗi hàng 4 cột.
Từ
kết quả nghiên cứu khảo cổ học, các nhà khảo cổ học đã phục dựng lại mặt bằng
quy hoạch tổng thể chùa Quỳnh Lâm thời Lê Trung hưng, xây dựng từ năm 1730-1740
do chùa Trịnh Giang cho xây dựng cụ thể như sau (theo hướng từ Nam lên Bắc): Hồ
nước – Tam Quan – Sân – Khu trung tâm gồm: Tiền Đường, Di Lặc điện, Hậu Đường
và hành lang.
1.4.
Chùa Quỳnh Lâm dưới thời Nguyễn
Năm
1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn thành lập, đóng đô ở Phú Xuân
(Huế), lấy Nho Giáo là hệ tư tưởng chính thống, đặc biệt dưới thời Minh Mạng
Nho giáo được đặc biệt đề cao, đây là giai đoạn phục hưng của Nho giáo Việt
Nam.
Trong
bối cảnh đất nước mới phải trải qua nhiều biến động và binh đao, Nho giáo được
lựa chọn là hệ tư tưởng chính thống nhưng không vì thế mà Phật giáo kém phát
triển. Tuy nhiên việc khi Kinh đô được chuyển vào Huế, Phật giáo Bắc Kỳ vì thế
cũng ít được quan tâm hơn, song với vai trò và vị trí của mình chùa Quỳnh Lâm vẫn
là chốn tùng lâm. Tại đây, năm 1820 Triều đình nhà Nguyễn lại tiếp tục cho
trùng tu và tôn tạo lại chùa theo mô hình của thời Lê Trung hưng thế kỷ 18,
ngoài việc trùng tu, chùa chùa, thời gian này còn cho đúc một quả chuông lớn (đại
hồng chung), quả chuông này hiện còn lại tại chùa. Thời Thiệu Trị (1840-1847),
chùa bị cháy Chính Điện và Tiền Đường, sau đó lại được xây lại, lần sửa chữa và
xây lại này về cơ bản chùa vẫn giữ cấu trúc của trước đây, tường được xây lại theo kỹ thuật trình tường, phần Hậu Đường được
chia nhỏ thành nhiều không gian khác nhau. Mặc dù quy mô có thể bị thu hẹp lại so
với trước nhưng chùa Quỳnh Lâm vẫn là chùa lớn với hàng trăm gian. Đến năm
1910, hỏa4 hoạn lại tiếp tục thiêu trụi toàn bộ nhà cửa, gác chuông, gác trống,...
nhân dân lại góp công góp sức xây dựng lại chùa, năm 1947, thực dân Pháp ném
bom phá huỷ hoàn toàn ngôi chùa
Các
tháp đá trước gác chuông ngày nay được xây dựng dưới thời Nguyễn, trong đó có
tòa tháp lục giác ở chính giữa có sử dụng 2 cấu kiện tháp của thời Trần, tức là
tòa tháp lưu giữ xá lỵ của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Các di tích thời Nguyễn còn
lại chủ yếu là nền móng kiến trúc được xây chồng đè lên trên các kiến trúc thời
Lê Trung Hưng.
2.
CHÙA QUỲNH LÂM, HÔM NAY VÀ NGÀY MAI
Năm
1997, Huyện ủy, UBND huyện Đông Triều đã huy động các nguồn lực, tổ chức trùng
tu, tôn tạo chùa Quỳnh Lâm, công trình đã hoàn thành được Cung Trúc Lâm, Gác
Chuông, Nhà bia.
Để
khôi phục lại trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm xứng tầm với lịch sử, nhiều năm
qua, được sự quan tâm của UBND tỉnh Quảng Ninh, UBND huyện Đông Triều đã phối hợp
với Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật nghiên cứu di tích, kết quả đã tìm thấy
dấu vết kiến trúc của nhiều thời kỳ từ thời Trần cho đến thời Nguyễn, đặc biệt
đã phát hiện và làm rõ cấu trúc mặt bằng kiến trúc thời Lê Trung hưng thế kỷ
18. Ngày 09/04/2016, nhằm ngày 3 tháng 3 năm Bính Thân, đúng ngày kỵ của đệ nhị
tổ Pháp Loa, chính quyền và nhân dân và Phật tử thập phương khởi công tôn tạo lại
Quỳnh Lâm theo cấu trúc kiến trúc thời Lê Trung hưng đã được khảo cổ học nghiên
cứu và làm rõ, các công trình xây dựng năm 1997 sẽ được hạ giải.
Một
diện mạo mới của Quỳnh Lâm đang được bắt đầu, và hẳn ứng với lời của tiền nhân
“gian nan rồi lại hanh thông, cạn kiệt rồi lại khôi phục” chốn tổ Quỳnh Lâm
tương lai sẽ xứng đáng với vị thế của một Trung tâm Phật giáo, kết nối Quỳnh
Lâm trong tổng thể các di tích lịch sử, văn hóa nhà Trần ở xứ Đông nói chung và
Quỳnh Lâm trong hệ thống chùa tháp của Thiền phái Trúc Lâm nói riêng, Quỳnh Lâm
sẽ lại là chốn tùng lâm vốn có của mình.
Nhận xét
Đăng nhận xét